Giá Trị Thặng Dư Siêu Ngạch và Mối Liên Hệ với Giá Trị Thặng Dư Tương Đối

Tại sao giá trị thặng dư siêu ngạch được xem là biến tướng của giá trị thặng dư tương đối?

Cả giá trị thặng dư siêu ngạch và giá trị thặng dư tương đối đều là kết quả của việc bóc lột lao động không công của công nhân làm thuê. Điểm chung cốt lõi của chúng nằm ở việc tăng năng suất lao động. Tăng năng suất lao động có nghĩa là trong cùng một khoảng thời gian, tổng sản phẩm tạo ra tăng lên, trong khi tổng chi phí sản xuất không tăng (hoặc tăng không đáng kể), dẫn đến giá trị của mỗi đơn vị sản phẩm giảm xuống. Nếu tổng sản phẩm tăng nhưng giá trị mỗi đơn vị sản phẩm không giảm, thì không được coi là tăng năng suất lao động.

Sự khác biệt chính giữa hai loại giá trị thặng dư này nằm ở nguồn gốc của việc tăng năng suất lao động. Giá trị thặng dư siêu ngạch phát sinh từ việc tăng năng suất lao động cá biệt (trong một doanh nghiệp cụ thể), trong khi giá trị thặng dư tương đối đến từ việc tăng năng suất lao động xã hội (trong toàn ngành hoặc toàn bộ nền kinh tế).

Cụ thể hơn, giá trị thặng dư tương đối được tạo ra bằng cách rút ngắn thời gian lao động tất yếu, từ đó kéo dài thời gian lao động thặng dư trong điều kiện độ dài ngày lao động không đổi. Việc rút ngắn thời gian lao động tất yếu này dựa trên nền tảng tăng năng suất lao động xã hội.

Xem Thêm:  Thất bại là mẹ thành công: Giải thích ý nghĩa và bài học kinh nghiệm

Ngược lại, giá trị thặng dư siêu ngạch xuất hiện khi một doanh nghiệp nào đó đạt được năng suất lao động cao hơn mức trung bình của xã hội. Điều này khiến giá trị cá biệt của hàng hóa do doanh nghiệp đó sản xuất ra thấp hơn giá trị thị trường của nó.

Ví dụ minh họa:

Giả sử giá trị thị trường của một hàng hóa được xác định là: 8c + 2v + 2m = 12 (trong đó c là hằng số tư bản, v là tư bản khả biến, m là giá trị thặng dư).

Doanh nghiệp A, nhờ áp dụng công nghệ mới, tăng năng suất lao động cá biệt, giảm chi phí sản xuất xuống còn 7c. Giá trị cá biệt của hàng hóa do doanh nghiệp A sản xuất là: 7c + 2v + 2m = 11.

Giá trị thặng dư siêu ngạch mà doanh nghiệp A thu được là: 12 (giá trị thị trường) – 11 (giá trị cá biệt) = 1.

Như vậy, doanh nghiệp A vẫn bán hàng hóa theo giá trị thị trường là 12, nhưng chi phí sản xuất chỉ là 11, tạo ra phần giá trị thặng dư siêu ngạch là 1. Điểm mấu chốt ở đây là việc tiết kiệm chi phí sản xuất (trong ví dụ là giảm từ 8c xuống 7c) nhờ tăng năng suất lao động cá biệt.

Giá Trị Thặng Dư Siêu Ngạch và Mối Liên Hệ với Giá Trị Thặng Dư Tương Đối

Tóm tắt về giá trị thặng dư siêu ngạch và tương đối

Tóm lại, cả hai loại giá trị thặng dư đều bắt nguồn từ việc tăng năng suất lao động, nhưng giá trị thặng dư siêu ngạch là kết quả của tăng năng suất lao động ở cấp độ doanh nghiệp cá biệt, còn giá trị thặng dư tương đối là kết quả của tăng năng suất lao động ở cấp độ xã hội. Chính vì vậy, C. Mác coi giá trị thặng dư siêu ngạch là một hình thức biến tướng của giá trị thặng dư tương đối.

Xem Thêm:  Mâu Thuẫn Cha Mẹ Con Cái: Nguyên Nhân Và Giải Pháp

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *