Table of Contents
Lý thuyết làn sóng là gì?
Lý thuyết làn sóng (wave theory) hay mô hình làn sóng (wave model) giải thích sự biến đổi ngôn ngữ, theo đó, hình thức ngôn ngữ mới lan từ trung tâm ra vùng ngoại vi, mạnh ở trung tâm và yếu dần ở rìa. Mô hình này giống như hình ảnh hòn đá rơi xuống nước tạo gợn sóng lan tỏa.
Johannes Schmidt và Hugo Schuchardt, các nhà nghiên cứu Đức, đề xuất lý thuyết này năm 1872. Trường phái Truyền bá luận (Diffusionism) cho rằng mọi biến đổi ngôn ngữ và văn hóa đều bắt nguồn từ một điểm rồi lan rộng, tạo động lực phát triển.
Hình 1: Mô hình làn sóng của Johannes Schmidt (1872). Nguồn: Asher R. E., The Encyclopedia of Languages and Linguistics, Pergamon Press, 1994.
Các khái niệm liên quan bao gồm sự thiên di, lan tỏa, loang ra trong văn hóa, vùng văn hóa, khu vực văn hóa. Trong ngôn ngữ học có sự truyền bá, lan tỏa, khuyếch tán. Lý thuyết Trung tâm và Ngoại vi, do các nhà nhân học Xô Viết đề xuất, cho thấy văn hóa lan từ trung tâm theo mô hình làn sóng, ví dụ văn minh Đông Á (trung tâm Trung Hoa), văn minh Nam Á (trung tâm Ấn Độ). Điều này ảnh hưởng đến khái niệm khu vực ngôn ngữ với trung tâm và ngoại vi.
Năm 1973, Charler Bailey đề xuất mô hình làn sóng mới, xem xét không gian và thời gian (hình 2, 3).
Hình 2: Mô hình làn sóng mới theo không gian và thời gian của Charler Bailey (1973). Nguồn: Walt W, Ralph W. Fasold, The study of Social Dialects in American English, Newbury House Publishers & Rowley, Massachusetts, 1974, tr. 76.
Hình 3: Mô hình làn sóng mới theo một hướng của Charler Bailey (1973). Nguồn: Walt W, Ralph W. Fasold, The study of Social Dialects in American English, Newbury House Publishers & Rowley, Massachusetts, 1974, tr. 77.
Trung tâm có đặc điểm thu hút, tích hợp, hội tụ, định hình và lan tỏa. Ngoại vi chịu lực hút và tiếp nhận sự lan tỏa từ trung tâm, ít sôi động hơn, lưu giữ dạng thức cổ hơn, gọi là khu vực di tích (relic areas) hay hóa thạch ngôn ngữ. Mô hình Bailey thực tế hơn mô hình Schmidt, thể hiện rõ quy luật lan truyền sóng, kể cả khi gặp vật cản tự nhiên hay xã hội.
Lý thuyết làn sóng được ứng dụng trong nghiên cứu biến đổi ngôn ngữ, tiếp xúc ngôn ngữ, song ngữ, đa ngữ. W. Labov, trong công trình “Sự truyền bá và khuyếch tán” (2007), đã tổng kết nhiều nghiên cứu về lan truyền yếu tố ngôn ngữ trên thế giới.
Lý thuyết làn sóng trong nghiên cứu ngôn ngữ, văn hóa Thăng Long – Hà Nội
Tích hợp và lan tỏa trong tiếng Việt ở Hà Nội thời dựng nước
Theo sử sách, vua Hùng định đô ở Bạch Hạc (Việt Trì), đỉnh tam giác châu thổ sông Hồng. Sau đó, vua Thục dời đô xuống Cổ Loa, ngã ba sông Đuống. Tam giác châu thổ sông Hồng là cái nôi người Việt cổ, kết quả hòa trộn Môn Khme cổ, Tày Thái cổ, Mã Lai cổ, Tạng Miến cổ.
Nhóm Việt – Mường hình thành từ sự hội tụ Môn Khme và Tày Thái. Khoảng thiên niên kỷ 2 TCN, cư dân Môn Khme di cư xuống vùng vịnh Hà Nội, hòa huyết với cư dân Tày Thái, hình thành cộng đồng Việt Mường, nói tiếng Việt – Mường chung. Tiếng tiền Việt Mường có cơ tầng Môn Khme và cơ chế Tày Thái.
Hình 4: Sơ đồ quá trình chuyển biến của các ngôn ngữ Việt Mường (Hà Văn Tấn, 1977). Nguồn: Phan Ngọc và Phạm Đức Dương, Tiếp xúc ngôn ngữ ở Đông Nam Á, Viện Đông Nam Á, Hà Nội, 1983, tr. 123.
Về ngữ âm, hiện tượng đơn tiết hóa do ảnh hưởng Tày Thái làm mất phương thức phụ tố, cấu trúc từ CCVC thành CVC. Tiếng Chứt, tiếng Poọng là dấu vết tiếng tiền Việt Mường.
Về từ vựng, tiếng Việt Mường chung pha trộn từ vựng gốc Thái. Ví dụ: cá bống mú, lược bí, mặt nạ, mưa phùn; chó má, cỏ giả, tre pheo; trắng nõn, xanh lè. Nhiều từ cơ bản như gà, vịt cũng gốc Thái.
Ngoài Môn Khme và Tày Thái, tiếng Việt Mường còn có yếu tố Mã Lai, Tạng Miến. Địa danh sông “Cà Lồ”, làng “Cán Khê” (Đông Anh, Hà Nội) gốc Nam Đảo. Số đếm một, hai,…, mười, trăm, ngàn gốc Nam Á. Hà Nội cổ là trạm trung chuyển, lan tỏa yếu tố ngôn ngữ ra xung quanh.
Tích hợp và lan tỏa sự tiếp xúc Việt Hán
Đầu Công nguyên, người Việt ở Giao Chỉ tiếp xúc tiếng Hán. Quan lại Trung Hoa chạy loạn sang Giao Chỉ, cư trú ở Long Biên – Hà Nội, thúc đẩy tiếp xúc Việt – Hán.
Tiếng Việt mượn từ Hán cổ, đọc theo âm Hán cổ, khác Hán Việt sau này. Ví dụ: bụa/phụ, buồm/phàm, buồn/phiền. Long Biên – Hà Nội là địa bàn tiếp xúc mạnh mẽ, sau đó lan tỏa. Ví dụ: đũa, thìa, bát lan từ Long Biên ra các vùng khác.
Sự xuất hiện 3 tuyến điệu (sau này thành 6 thanh) do ảnh hưởng tiếng Hán. Hà Nội là nơi hoàn thiện hệ thống 6 thanh. Các vùng lân cận như Cổ Nhuế, Sơn Tây, Thanh Hóa, Nghệ Tĩnh chưa thực hiện triệt để.
Cách đọc Hán Việt hình thành ở Thăng Long – Hà Nội, lan ra cả nước. Văn sĩ, trí thức coi cách đọc Hán Việt ở Hà Nội là chuẩn mực.
Hà Nội là nơi hội tụ sông ngòi, mạch núi, tạo lợi thế giao thông, từ đó hình thành vị thế trung tâm. Lý thuyết làn sóng giải thích các vấn đề ngôn ngữ, văn hóa Hà Nội, giúp nhìn nhận quy luật lan truyền văn hóa, gạn lọc dòng chảy văn hóa, để những làn sóng tốt đẹp lan tỏa giá trị văn hóa khắp Việt Nam.

Nguyễn Lân Tuất là nhà khoa học người Việt Nam trong lĩnh vực vật liệu tiên tiến, hiện đang làm việc tại Đức (wiki). Ông xuất thân từ dòng họ Nguyễn Lân, gia đình có truyền thống hiếu học. Với nhiều năm nghiên cứu và giảng dạy, ông đã đóng góp quan trọng trong công nghệ vật liệu, đặc biệt là màng mỏng và vật liệu chức năng, với các ứng dụng thực tiễn trong công nghiệp và khoa học.